Bài viết của phụ huynh HS


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CNTT
 TRONG GIẢNG DẠY Ở BẬC CƠ SỞ

Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền thông (ICT) thay vì CNTT (IT). Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),…
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình.       Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong bài này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình trong các năm học vừa qua để cùng các bạn cùng thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.
Thực trạng ứng dụng CNTT trong dạy học ở bậc học THCS
Môn Tin học ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, …
Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như:
+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.
+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.
+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động xã hội hiện đại.
+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.
+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập.
+ Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội.
*) Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo giải những bài toán, bài văn... đã học ở các môn học khác.
+ Phần mềm sử dụng bảng tính: Học sinh ứng dụng từ các môn học như toán, vật lý... để tính toán một cách nhanh chóng, chính xác.
+ Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ.
+ Phần mềm tập gõ bàn phím bằng mười ngón tay Mario: Giúp HS luyện tập cách làm việc với bàn phím một cách chuẩn xác nhanh chóng và hiệu quả cao.
+ Trong chương trình tin học THCS thì một số bài học được phân bố xen kẽ giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp …
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong việc ứng dụng CNTT. Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của nghành giáo dục, sự ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả đúng với vai trò của nó.Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy ứng dụng CNTT.
Từ khá sớm, các trường đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường được trang bị phòng mày tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn Tin học (chỉ là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như: Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Ở các tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính.
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này, trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đoạn hiện nay. CBT là phương pháp kết hợp được cả những thế mạnh của phương pháp dạy học truyền thống (dựa trên giao tiếp thầy-trò) và khai thác được những ưu thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ những bài giảng điện tử). Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy trò. Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì là ở giáo dục phổ thông, giáo viên không chỉ dạy kiến thức mà còn phải theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để làm chủ được quá trình học tập của mình. Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau đại học và những người đã đi làm. Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay như dùng Powerpoint, Violet để thiết kế bài giảng và dạy học dùng máy chiếu. Những kết quả thu được là rất đáng kể.
Xuất phát từ thực ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên, tôi xin có các giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao khi ứng dụng CNTT trong giảng dạy như sau:
Giải pháp ứng dụng CNTT trong giảng dạy:
1.Các giải pháp cơ bản:
- Tham mưu với lãnh đạo chỉ đạo các đơn vị trang bị những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện GAĐT như máy tính, máy chiếu đa năng (Multimedia projector), nối mạng Internet cho phòng bộ môn tin học.
- Tổ chức một số buổi học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, khai thác mạng Internet cho giáo viên để họ có thể tự thiết kế GAĐT cho mình.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc sử dụng GAĐT, khai thác mạng Internet để làm phong phú thêm những dạng bài tập khác nhau.
- Tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn để thu nhận những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới.
- Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực chất chất lượng dạy học và giáo dục.
2. Các biện pháp cụ thể:
- Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các trường phổ thông. Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rải, chưa thực sự phổ biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán : Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)
- Biết cách truy cập Internet
- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
- Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các bạn đồng nghiệp tự thảo luận.
Với hình thức giảng dạy như thế, tôi tin rằng các em học sinh sẻ cảm nhận và khắc sâu, dể hiểu về bài học, qua đó giáo viên khỏi mất thời gian vẽ hình, không mất thời gian xóa bảng mà chỉ khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh ……
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng ( văn bản, hình ảnh, ..) được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên (GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay PowerPoint hay Violet sẻ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiện được thời gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẻ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ có một tiết học thoải mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ thuật đã được đề cập là các phương tiện hổ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
- Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT? Khi chuyển từ bài giảng truyền thống (thầy giảng- đọc trò ghi hay thầy vừa giảng vừa ghi – trò chép) sang việc giảng bài bằng GAĐT (ƯDCNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung và tổ Tự nhiên nói riêng thường mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẻ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế HS sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.Tùy theo từng môn học, chúnh ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên luu ý về số lượng chữ, màu sắt, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách rỏ ràng, dể hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẻ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo. Sử dụng GAĐT cũng có nghĩa giáo án truyền thống được lảng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới có thể nhớ hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẻ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày sau? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa.           Tóm lai, chúng ta phải kết hợp đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này.
 Các phần mềm hỗ trợ cho giảng dạy:
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tôi khuyến khích học và sử dụng các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc giảng dạy.
Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện đẹp. Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng phần mềm Powerpoint, tuy nhiên, xu hướng đang chuyển dần sang các phần mềm khác hiện đại hơn, dễ dùng hơn và không gặp phải vấn đề bản quyền.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp (sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt, dễ dùng, có khả năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập.
Nói tóm lại việc triển khai và áp dụng tốt việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy sẽ đem lại hiệu quả rất to lơn cả về chất lượng học sinh cũng như mang lại cho ngôi trường đó đúng với danh hiệu “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực” phù hợp với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
ĐỐI VỚI NGÀNH GIÁO DỤC

Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của CNTT. CNTT đã ở một bước phát triển cao đó là số hóa tất cả các dữ liệu thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại với nhau. Mọi loại thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số để bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia sẻ thông tin với nhau. CNTT đến với từng người dân, từng người quản lý, nhà khoa học, người nông dân, bà nội trợ đặc biệt là đối tượng học sinh, sinh viên. Không có lĩnh vực nào, không có nơi nào không có mặt của CNTT. Tác động của CNTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người Trong nền kinh tế tri thức, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả thao tác tư duy. Trong nền kinh tế toàn cầu, với sự phát triển của internet, thương mại điện tử đang trở thành một lĩnh vực phát triển rất mạnh mẽ, nó thúc đẩy các ngành sản xuất dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới, và đặc biệt quan trọng với các nước đang phát triển, nhất là đối với vùng xa xôi hẻo lánh, các nước và các vùng này có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. Công nghệ thông tin là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Trong lĩnh vực Giáo dục, đào tạo việc ứng dụng CNTT đã góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp, các bậc học, mở rộng thêm nhiều loại hình đào tạo như đào tạo từ xa, phối hợp liên kết giữa các trường, các Quốc gia với nhau đang nhằm đưa chất lượng giáo dục của nước ta ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ điện tử trên cơ sở điện tử hoá các hoạt động quản lý nhà nước đang hình thành và ngày càng trở nên phổ biến. Mạng thông tin lớn và mạnh có thể nối các cơ quan quản lý với đối tượng quản lý, giúp cho quá trình ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác và tiết kiệm thông qua các hoạt động giao ban trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở theo định kỳ hoặc khi có sự vụ đột biến xảy ra. Thương mại điện tử xuất hiện, khách hàng có thể tiếp xúc và tìm hiểu mọi thông tin về công ty dễ dàng ở bất cứ nơi nào, lúc nào. công ty sẽ nhận được phản hồi của khách hàng nhanh chóng về chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hoá của các doanh nghiệp để từ đó có những thay đổi về chiến lược kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu của thị trường. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm thay đổi cách tiếp cận của từng người tới tri thức, giải trí, phương pháp tư duy và giải quyết công việc và các mối quan hệ trong xã hội. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, và ngược lại giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để sau này được tốt hơn.
          Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn.   Hơn nữa, chính bản thân công nghệ thông tin đã trực tiếp tạo ra sự biến đổi lớn lao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Chưa bao giờ CNTT đi vào cuộc sống sẽ lan toả đến mọi nơi như lúc này, mọi lĩnh vực, máy tính sẽ có mặt ở khắp mọi nơi, việc kết nối mạng cũng trở nên dễ dàng và thuận tiện nhất cho tất cả mọi người dân. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin hiện nay, học sinh ngày nay không còn sợ thiếu tài liệu, tư liệu phục vụ cho việc mở mang kiến thức, bởi tất cả đều có thể tìm được trong kho tư liệu khổng lồ trên internet. Nhưng để sử dụng chúng một cách hiệu quả, học sinh cần chọn lọc, tổng hợp và kết nối thành những bài học phù hợp cho mình. Internet giúp cho học sinh có cơ hội tương tác nhiều hơn với giáo viên và bạn học khác thông qua công cụ đơn giản như diễn đàn, thư điện tử, hội thoại trực tuyến... Các lớp học online ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là với môn ngoại ngữ và khoa học tự nhiên. Đó là một phương thức học rất hiệu quả, bởi có thể học mọi lúc, mọi nơi và sự tương tác xảy ra tức thì.
Không đứng ngoài trào lưu của sự phát triển đó, ngành giáo dục Quảng Nam mà đặc biệt là trường trung học cơ sở Lý Tự Trọng thành phố Tam Kỳ đã thực hiện tốt sự chỉ đạo của các cấp, các ngành về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong nhà trường. Trong những năm qua Trường Lý Tự Trọng đã tập trung chỉ đạo và triển khai đầu tư ứng dụng nhiều loại hình CNTT và bước đầu đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Mọi hoạt động của nhà trường được đưa lên địa chỉ Webside để cán bộ, giáo viên, học sinh của nhà trường và  những người quan tâm đến hoạt động của nhà trường cập nhật một cách nhanh chóng, tiết kiệm.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét