NGUỒN GỐC TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Đến nay, nhiều
người trong chúng ta vẫn chưa biết dân tộc Việt bắt đầu ăn Tết từ bao giờ và
tại sao có ngày Tết. Sách “Việt sử đại toàn” đã ghi lại việc này, tuy không cụ
thể nhưng qua phân tích ta có thể suy đoán một cách tương đối về thời gian hình
thành mỹ tục ăn Tết cổ truyền của dân tộc Việt.
Truyền thuyết
và lịch sử cho thấy: Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm Nhâm Tuất 2879
trước công nguyên, trị vì cả 2.622 năm. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long
Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng
Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết. Bắt đầu có bánh chưng, bánh dầy
nhờ sáng kiến của Lang Liêu - con trai thứ 18 của vua Hùng Vương 6. Có thể nói,
nước ta sớm hình thành một nền văn hóa truyền thống mang bản sắc riêng của
người Việt. Nền văn hóa với những đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước, cùng
những sản vật từ lúa gạo. Gạo - thứ thực phẩm chính nuôi sống con người, trong
đó gạo nếp là thứ ngon nhất, thơm, dẻo, nhiều chất. Chính vì lẽ đó, gạo nếp
được chọn để làm thành các thứ bánh dành cho việc cúng tế tổ tiên trong ngày
đầu năm. Thực ra, cho đến nay, nói một cách chính xác dân ta ăn Tết bắt đầu từ
khi nào không ai nắm rõ. Lịch sử Trung Hoa viết, từ thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên
và Tích Quang quan nước Tàu sang nước
ta, truyền cho dân ta biết làm ruộng và các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có
cả việc ăn Tết cổ truyền. Song thực tế đã chứng minh rằng: Trước khi người
Trung Hoa sang đô hộ, dân tộc Việt đã có sinh hoạt văn hoá nền nếp và đặc sắc.
Thứ nhất: Vua Hùng không giống
các vị hoàng đế Trung Hoa - nhất nhất theo Khổng giáo. Việc truyền ngôi cho con
trai thứ 18 đã chứng tỏ sự khác biệt của dân tộc Việt với dân tộc Hoa. Thông
thường các hoàng đế truyền lại ngôi cho vị hoàng tử cả nhưng Hùng Vương thứ 6
của nước Văn Lang không theo nguyên tắc đó, ông chọn người kế vị trị vì đất
nước thay mình là người hiền đức, bất luận đó là cả hay thứ.
Thứ hai: Lang Liêu là một hoàng
tử, đương nhiên phải là người được tiếp thu, thấm nhuần văn hoá dân tộc và tư
duy theo cách của đồng bào mình. Theo đó, thấy rằng, dân tộc Việt ta có cách
nghĩ thực tế hơn so với người Hoa. Bánh chưng vuông tượng trưng cho đất. Đất ở
đây không có nghĩa là trái đất, mà là những mảnh ruộng vuông vắn nơi người dân
trồng cây lúa nước nuôi sống chính mình. Bánh giày tượng trưng cho trời tròn
không có nghĩa là bầu trời hình tròn, mà là hệ vòng quay 4 mùa: xuân, hạ, thu,
đông liên tiếp. Người Hoa thường giải thích vạn vật qua những hệ số, bói toán
trừu tượng, đôi khi như ma thuật rất xa xôi, khó hình dung.
Như vậy, có
thể nói Tết cổ truyền của Việt Nam
phải hình thành từ trước thế kỷ thứ nhất, không phải do người Hoa khai hoá hay
đồng hoá. Tuy nhiên, do cùng nằm chung vùng lục địa, lại nằm kề nhau nên không
thể không mang những ảnh hưởng của nhau. Sau này, khi Trung Hoa đô hộ nước ta
nhiều năm liền những ảnh hưởng đó càng lớn hơn. Song về cơ bản bánh chưng, bánh
giày là đặc trưng của dân tộc Việt. Trong ngày Tết cổ truyền có thể thiếu câu
đối đỏ song không thể không có bánh chưng xanh để cúng tế tổ tiên.
( Theo lichsuvn.info)
LỊCH SỬ, Ý NGHĨA TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Tết Nguyên đán, còn gọi Tết Ta,
Tết Âm Lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết, là dịp lễ quan trọng
nhất trong văn hoá của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch hay Tết
Tây, thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch và nói
chung kéo dài khoảng 5–6 ngày, tạo điều kiện cho những thành viên gia đình sinh
sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê vui cảnh đoàn viên ít ngày. Nhưng ý nghĩa
thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó là dịp để người Việt nhớ về cội nguồn, ông
bà tổ tiên. Ngày tết đem lại một sự khởi đầu mới, rũ bỏ những gì không hay đẹp
của năm qua nên mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích
cũ. Lòng người nào cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm
mới.
Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi
đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Tết Nguyên đán được người
Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết (春節, chữ
Tết là từ chữ Tiết), Tân niên (新年) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年).
Thời gian cử hành Tết
Phong bì lì xì đựng tiền mừng
tuổi
Ngày đầu năm này cũng gọi là ngày
Mồng Một Tết, ngày bắt đầu của một dịp lễ cổ truyền long trọng nhất trong năm của
người Việt. Có những thời điểm trước đây chuỗi ngày Tết được kéo dài hơn hiện
nay, người ta "ăn Tết" (tận hưởng Tết) đến Mồng Tám, Mồng Chín tháng
giêng (tháng một Âm lịch); nói chung khi nào những công sở, trường học còn nghỉ
thì còn Tết. Tết là dịp hội hè vui chơi sau một năm lao động vất vả, và là dịp
để những người tha phương tìm về sum họp với gia đình, cùng nhau tưởng nhớ đến
tổ tiên, cội nguồn. Người Việt Nam tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới,
phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước
Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới
để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ.
Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi.
Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi
chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền
dành cho chúng tiêu xài ngày Tết.
Những nét chính về Tết
Mùa Tết
Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt
đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về
trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại
tình hình trong năm của chủ gia) vào ngày này. Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm
các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết thường sẽ
chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong
năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp trống không). Tại những bến xe tấp nập
những người tha phương mua vé xe để trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí
lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẩn bị
đón xuân.
Chợ Tết
Đấy là những chợ có phiên họp chợ
vào trước tết từ 25 tháng chạp cho đến 30 tháng chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng
nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết nguyên đán, như lá dong để gói bánh
chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống, các loại trái cây dùng
thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên.... Vì tất cả những người buôn bán hầu như
sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ,
nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người
Việt có câu "mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp
phiên đầu năm là mồng ba tết (ngày 3 tháng 01 âm lịch) Hơn nữa, chợ Tết cũng để
thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những
loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn
như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v. Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm
dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và
đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt.
Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ
lực "quốc hồn quốc túy"
Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu
tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nõn
nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó cho vào
các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại. Vào vài buổi chợ
giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự trữ chủ lực: thịt kho
nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong. Không ai
là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng
nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một
miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt
kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không
thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn
thấy chúng, nếm chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được
hương xuân trọn vẹn.
Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu,
một số người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu
hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn".
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu
phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ,
phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ.
Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng,
hoa đào v.v. Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong
màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng Tết, rồi nổ
lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng" mới thôi.
Trang phục có tông màu đỏ cũng
được ưa chuộng để mặc Tết.
Khái niệm thời gian
Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi
người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay trở sang âm lịch rất tự nhiên,
với những khái niệm thời gian trước tết gọi là “hăm” (ngày 20 tháng chạp âm
lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi vào tháng chạp thiếu sẽ không có
ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng hai tết, mồng tám tết... Âm lịch
hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của
ngày lễ trọng đại, thiêng liêng nhất này.
Lịch sử
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn
gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ.
Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà
Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm.
Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua
chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ
Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết
khác nhau.
Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử
đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN),
Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Cho đến khi nhà Hán, Hán
Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau,
trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho
rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày
thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh
Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế,
ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng giêng
(8 ngày).
Ngày nay, Việt Nam quy định viên
chức và công nhân lao động được nghỉ Tết vào ngày 29 hoặc ngày 30 trước Tết và
từ mùng Một đến mùng Ba (tổng cộng 4 ngày). Việt kiều sinh sống tại Âu Châu hay
Bắc Mỹ hoặc chỉ giữ ngày mùng Một hoặc tổ chức Tết vào ngày cuối tuần gần nhất.
Ngoài ra, người ta thường nói
"20 Tết", "15 Tết"... đây chỉ là nói những ngày ảnh hưởng
do những công việc để chuẩn bị đón Tết hay dư âm còn lại của những ngày Tết.
Nguyên nghĩa của Tết chính là
"tiết". Văn hóa Việt – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu
cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành
24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao
thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh
tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên
Đán.
Ngày nay, cùng với người Hoa,
người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa như Triều
Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Bhutan, H’mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm
lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng
từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ
tương ứng trong âm lịch.
Ba "giai đoạn" đón mừng
Tết
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến
lại trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước
bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại
nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều
người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể
gắn liền với giếng nước, mảnh sân nhà. "Về quê ăn Tết" đã trở thành
thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Tuy là Tết cổ truyền của dân tộc
nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Nam hoặc theo những quan niệm về
tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức, nhiều phong tục tập quán (địa
phương) khác nhau.
Các điểm chung giữa phong tục Tết
ba miền. Nói chung Tết ở ba miền đều có thể phân làm 3 khoảng thời gian, mỗi
khoảng thời gian ứng với những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với
những hình thức thể hiện khác nhau, đó là Tất Niên, Giao Thừa và Tân Niên.
Tất Niên
Đối với Tết cổ truyền, dịp tất
niên là lúc mọi nhà chuẩn bị cho Tết, mua tích trữ thực phẩm và đồ dùng thiết
yếu. Lý do là nhiều hoạt động mua bán sẽ bị ngưng trệ trong và sau Tết, chừng
một vài ngày đến một tuần, do mọi người đều nghỉ ăn Tết. Nhu cầu mua sắm vào
dịp này cũng một phần là vì các nhà thường chuẩn bị tài chính cho dịp Tết từ
năm cũ. Những nhà làm nghề nông cũng tích trữ vật nuôi hay hoa màu từ trong năm
cũ cho dịp Tết.
Bước vào bất cứ nhà nào trong
thời điểm cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp
và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị
bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về... Đối với các gia đình lớn, họ
hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn
bị càng phức tạp hơn.
Cúng bái
Cúng Tất Niên
Sắp dọn bàn thờ – Trong gia đình
người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ
theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là
nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng
cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau
2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông
lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với cầu
mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở
giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn
lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để
đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả,
nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước
trong với ý nghĩa để các cụ rửa chân tay sạch sẽ về đón tết cung con cháu [cần
dẫn nguồn]. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con
cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Cúng ông Táo – theo quan điểm của
người Việt thì ông Táo là người ghi chép tất cả những gì con người làm trong
năm và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ngoài ra, ông Táo còn đại diện cho sự ấm no của
một gia đình. Ông Táo được cúng vào ngày 23 tháng chạp Âm lịch hàng năm. Lễ
cúng ngoài hương, nến, hoa quả, vàng mã còn có hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà và
con cá chép, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc
Hoàng.
Bàn thờ tổ tiên(?) trong ngày tết
Cúng Tất niên: lúc đầu được hiểu
như là hoàn tất (công việc) trong năm, tức cúng các tổ nghề đã phù hộ cho công
việc làm ăn, nhưng vì không phải thợ nào cũng có vị tổ nghề rõ ràng nên dần dà,
mọi người đều cúng. Lễ cúng này thường vào các ngày từ sau 23 đến 29 hoặc 30
Tết.
Giao thừa
Cúng Giao thừa hay lễ Trừ Tịch:
Theo tục lệ cổ truyền thì "giao thừa" được tổ chức nhằm đón các thiên
binh. Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong
nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Mâm lễ được
sắp bày với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón
người mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp
quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang
theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có
bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc
con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã. Đôi khi
có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành khiển. Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận
cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc. Bắt đầu vào lúc giao thừa, và
cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, giao
thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Cao đài Từ điển giải nghĩa trừ tịch 除夕 thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối năm; tịch: đêm và Giao thừa 交承 thì giao: giao tiếp và thừa: tiếp tục. Ý nghĩa của lễ này
là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới
sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để " khu trừ ma quỷ".
Sau khi cúng Giao thừa xong, các
gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ
tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ở
Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất. Sau khi cúng xong,
xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.
Pháo đốt ngày tết
Trước đây, đúng vào phút Giao
thừa, mọi người thường đốt pháo Tết. Theo lời truyền miệng dân gian, pháo được
cho nổ vào dịp năm mới để xua đuổi ma quỷ của năm cũ (vì người xưa đã tin rằng
ma quỷ sợ tiếng động lớn) và chào đón năm mới. Pháo càng dài và lớn, nổ càng
lâu, kêu càng to, cháy ra nhiều xác phác pháo và cháy hết thì càng được cho là
điềm lành của năm mới. Tuy nhiên do nguy cơ cháy nổ, sát thương và ô nhiễm môi
trường mà từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, pháo Tết đã bị cấm ở Việt Nam. Nay được
thay thế bằng bắn pháo hoa do nhà nước Việt Nam tổ chức, hiện chỉ ở các thành
phố lớn do giá thành còn đắt.
Tân Niên
Xông đất: (Miền Bắc gọi là
"xông đất", nhưng miền Trung dùng đúng tên cổ tục này là "đạp
đất".) Người Việt quan niệm ngày mồng Một Tết, nếu mọi việc xảy ra suôn
sẻ, may mắn thì cả năm cũng sẽ được tốt lành thuận lợi. Người khách đến thăm
nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi
người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh
hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến
thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong
năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm
vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng
gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người
tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có
tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia
đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều: Người được chọn xông
đất phải khoẻ mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hoà thuận.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn
gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc
tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người
tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc
thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày
tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi).
Lì xì: Lì xì (利市, phát âm theo người Quảng Đông: lishi): người lớn thường
tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là
"lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung
Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hoá thân) được
đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu.
Xuất hành và hái lộc: "Xuất
hành" là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình
và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương
hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Nếu xuất hành ra
chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một "cành
lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc".
Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm
tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc
của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác
với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong
các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Thăm viếng họ hàng – để gắn kết
tình cảm già đình họ hàng v.v. Lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát
lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công...; những người năm cũ gặp
rủi ro thì động viên nhau "tai qua nạn khỏi" hay "của đi thay
người" nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt
lành.
Dọn dẹp, trang trí
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây
có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của
người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên
gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Tranh tết
Phía trên bàn thờ thường treo một
tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm,
Phúc, Đức...).
Tranh Tết từ lâu đã trở thành một
tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới
chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể
thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như
khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của
người Việt
Câu đối Tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân,
trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn
còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được
viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho
nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất
hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt mỡ, dưa hành,
câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh
Hoa tết
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho
Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và
hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...;
hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa
thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền,... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa
kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý
nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng
ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.
Hoa đào
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ
để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người
Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí
mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân
Hoa mai
Hoa Mai, với miền Nam
nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa
Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay
dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh
hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng
thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí
trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với
người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm
ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc
sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.
Cây quất
Tết đến, cây quất thường được
trang trí tại phòng khách. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ
nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự
trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống
Cây nêu
Cây nêu là một cây tre cao khoảng
5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như vàng mã,
bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để
táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi
người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi
gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe
rất vui tai... Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những
tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là
nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc
đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm
trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc
những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày
Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công,
ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ
tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.
Bớ lũ quỷ kia, tớ dựng cây nêu
ngán chửa?
Hỡi bầy trẻ nọ, bay nghe tiếng
pháo mừng không?
(Nguồn: wikipedia)
QUỐC KỲ VIỆT NAM
Cùng xuôi dòng lịch sử tìm hiểu về thay đổi của lá Quốc kỳ cũng như ôn lại những hình ảnh không thể nào quên trong ngày 2/9/1945.
Cách đây 66 năm, ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khẳng định nền độc lập thật sự, không thể chối cãi của dân tộc Việt Nam trước toàn thể quốc dân và thế giới. Kể từ đó, ngày 2/9 đã trở thành mốc son lịch sử không thể nào quên, bước ngoặt trọng đại mở ra kỷ nguyên mới cho nước Việt Nam.
Để có được nền hòa bình, tự do như ngày hôm nay, biết bao thế hệ đàn anh đi trước đã phải ngã xuống. Và bạn có biết, xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, lá Quốc kỳ nước mình cũng trải qua một chặng đường dài với nhiều thay đổi. Nhân dịp kỷ niệm 66 năm ngày Quốc khánh, hôm nay, chúng ta sẽ cùng ôn lại những mốc son quan trọng của lá Quốc kỳ nhé!
Bên cạnh đó, hãy cùng điểm lại những hình ảnh không thể nào quên của ngày lễ trọng đại này:


Cách đây 66 năm, ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khẳng định nền độc lập thật sự, không thể chối cãi của dân tộc Việt Nam trước toàn thể quốc dân và thế giới. Kể từ đó, ngày 2/9 đã trở thành mốc son lịch sử không thể nào quên, bước ngoặt trọng đại mở ra kỷ nguyên mới cho nước Việt Nam.
Để có được nền hòa bình, tự do như ngày hôm nay, biết bao thế hệ đàn anh đi trước đã phải ngã xuống. Và bạn có biết, xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, lá Quốc kỳ nước mình cũng trải qua một chặng đường dài với nhiều thay đổi. Nhân dịp kỷ niệm 66 năm ngày Quốc khánh, hôm nay, chúng ta sẽ cùng ôn lại những mốc son quan trọng của lá Quốc kỳ nhé!



Bên cạnh đó, hãy cùng điểm lại những hình ảnh không thể nào quên của ngày lễ trọng đại này:



Tư liệu - Hình ảnh về Cách mạng
tháng Tám 19/08/1945
Cách mạng tháng Tám ngày 19 tháng 8 năm 1945 là cuộc cách mạng thắng lợi của Việt Minh với quân Pháp, Nhật và chính phủ Đế quốc.
Cục diện lúc bấy giờ
Vào tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập hợp tại một địa điểm gần biên giới Việt-Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Tổ chức này thường được gọi vắn tắt là Việt Minh.
Tại châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 14 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Do đó quân Nhật tại Việt Nam dao động và tan rã. Theo tối hậu thư Postdam của phe đồng minh gửi Nhật ngày 26 tháng 7, quân đội Nhật sẽ bị giải giới do quân đội Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, và do quân đội Anh từ Nam vĩ tuyến 16.
Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân cướp các kho thóc Nhật. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên toàn quốc, đó là Cách mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham gia của hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước trong mười mấy ngày.
Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra nhiều xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình...
Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.

Sau đó công dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu và được gắn huy chương. Khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị, Hồ Chí Minh ở Tân Trào mới về Hà Nội, dân chúng vẫn chưa biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945
Tiếp theo đó, đất nước non trẻ tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng nhà nước dân chủ độc lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh được 98% ủng hộ.
Cách mạng tháng Tám (ngày 19 tháng 8 năm 1945) là cuộc cách mạng thắng lợi của Việt Minh với quân Pháp, Nhật Bản và chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn. Kết quả chính phủ cũ giải tán và sau đó đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cục diện lúc bấy giờ
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Phát Xít gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến.
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Thế chiến thứ hai, Chính phủ Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã nên đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc Kỳ.
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Thế chiến thứ hai, Chính phủ Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã nên đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc Kỳ.
Ngay lập tức quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, miền Bắc Việt Nam là một điểm quan trọng trong chiến lược quân sự của Nhật nhằm thống trị toàn bộ vùng Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc đại thắng của Đức tại Châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc Hải Quân và Không Quân Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài Gòn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đông của Anh).

Thời gian này, Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn nhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng thất bại.
Vào tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập hợp tại một địa điểm gần biên giới Việt-Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Tổ chức này thường được gọi vắn tắt là Việt Minh.
Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng Đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc.
Trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền).
Tại châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 14 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Do đó quân Nhật tại Việt Nam dao động và tan rã. Theo tối hậu thư Postdam của phe đồng minh gửi Nhật ngày 26 tháng 7, quân đội Nhật sẽ bị giải giới do quân đội Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, và do quân đội Anh từ Nam vĩ tuyến 16.
Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân cướp các kho thóc Nhật. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên toàn quốc, đó là Cách mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham gia của hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước trong mười mấy ngày.
Diễn biến tại miền Bắc
Khi nhậm chức, bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ Trần Trọng Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó và cho phép các tổ chức, hội đoàn chính trị được hoạt động công khai. Tin đồn dân Nhật sắp sửa đầu hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã tụ tập biểu tình, bãi công nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8. Từ ngày 12 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái... và hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến lên giành chính quyền tại các tỉnh lỵ.
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945 đã nhận định rằng những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín mùi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa.
Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra nhiều xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình...
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về bao vây, tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.
Tổng khởi nghĩa tại Hà Nội
Sáng ngày 18 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các uỷ viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau.

Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.
Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó.
Diễn biến tại Huế
Ngày 17/8/1945 chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt quốc dân nhưng cuộc mít tinh đã trở thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Ngày 23/8 khởi nghĩa giành thắng lợi. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp của lực lượng Thanh niên tiền tuyến (Thanh niên Phan Anh).

Diễn biến tại miền Nam
Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt trận Quốc gia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.

Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) là người sáng lập đạo Hòa Hảo.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh mà Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gòn (nơi chịu sự cai trị trực tiếp của Nhật).
Đến ngày 28 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền toàn quốc. Hai tỉnh cướp được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.
Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị
Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã giành được chính quyền. Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh Thụy. Ngày 30 tháng 8, hàng mấy vạn người tụ tập trước Ngọ Môn Lâu xem nhà vua thoái vị, ông tuyên bố "Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ".

Vua Bảo Đại (Đứng giữa).
Sau đó công dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu và được gắn huy chương. Khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị, Hồ Chí Minh ở Tân Trào mới về Hà Nội, dân chúng vẫn chưa biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh của một nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn, dựa theo bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Hình ảnh Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Tiếp theo đó, đất nước non trẻ tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng nhà nước dân chủ độc lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh được 98% ủng hộ.
Tại Sài Gòn
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hàng ngàn người dân từ nhiều tỉnh và tại Sài Gòn kéo về quảng trường Norodom (gần nhà thờ Đức Bà) chờ được nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập từ quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Nhưng do thời tiết xấu và trình độ kỹ thuật lúc đó, những lời tuyên bố của Hồ Chí Minh trước quốc dân không đến được với những người dự mít tinh.
Ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch Lâm ủy hành chính Nam Bộ bước lên khán đài kêu gọi nhân dân đoàn kết chung quanh chính phủ Hồ Chí Minh, nâng cao cảnh giác, "sẵn sàng đập tan mưu đồ của thực dân, đế quốc trở lại xâm lược nước ta lần nữa". Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, người được cử chức Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ lâm thời thay mặt chính phủ tuyên thệ trước quốc dân "Cương quyết lãnh đạo đồng bào giữ gìn đất nước, vượt qua khó khăn nguy hiểm xây đắp nền độc lập hoàn toàn cho Việt Nam".
Khi cuộc mít tinh chuyển sang biểu tình tuần hành, từ trên những tầng lầu cao xung quanh, quân Pháp đã nổ súng bắn vào đoàn biểu tình tuần hành làm 47 người chết và bị thương. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, ông Trần Văn Giàu viết lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến: "Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp, cứu nước. Cuộc kháng chiến bắt đầu..."
Với sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỷ tại Việt Nam, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn năm, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
Hà Nội 10/10/1954 hào hùng
Hôm nay, chúng ta cùng quay ngược lại thời gian và chiêm ngưỡng một Hà Nội cổ kính cách đây 58 năm (10/10/1954) dưới lăng kính nhiếp ảnh của tạp chí LIFE nhé!

Đây là hình ảnh về phố Hàng Đào trước khi quân giải phóng tiến vào thành phố.

Một góc phố Cầu Gỗ.

Hẳn các bạn cũng nhận ra đây là phố Tràng Tiền với hình ảnh Nhà hát lớn phía xa.

Những chuyến xe vội vã đưa quân Pháp tập kết tại Hải Phòng, chuẩn bị về nước.

Bộ đội ta tiến vào Thủ đô với niềm hân hoan về ngày Hà Nội được giải phóng.

Khắp nơi, già - trẻ - trai - gái, tất cả cùng ùa ra đường, cầm trên tay cờ đỏ sao vàng.

Cùng ca vang bài hát "Tiến quân ca".

"Đại quân ta" bước đi trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân Hà Nội.

Từng lữ đoàn nhanh chóng di chuyển về điểm tập kết tại sân Cột Cờ.

"Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về.
Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dọc sức sống long lanh".

Lễ chào cờ lịch sử trên sân khấu Cột cờ chiều ngày 10/10/1954.
Thời điểm đường phố Hà Nội ngày 10/10/1954 trước khi bộ đội ta tiến vào.

Đây là hình ảnh về phố Hàng Đào trước khi quân giải phóng tiến vào thành phố.

Một góc phố Cầu Gỗ.

Hẳn các bạn cũng nhận ra đây là phố Tràng Tiền với hình ảnh Nhà hát lớn phía xa.

Những chuyến xe vội vã đưa quân Pháp tập kết tại Hải Phòng, chuẩn bị về nước.
"Trùng trùng, quân đi như sóng...". Và đây là khoảnh khắc lịch sử khi "đại quân ta" tiến về Hà Nội. Khắp nơi vang bừng tiếng hát "Tiến quân ca", mà hơn cả là bài "Tiến về Hà Nội" do cố nhạc sĩ Văn Cao sáng tác.

Bộ đội ta tiến vào Thủ đô với niềm hân hoan về ngày Hà Nội được giải phóng.

Khắp nơi, già - trẻ - trai - gái, tất cả cùng ùa ra đường, cầm trên tay cờ đỏ sao vàng.

Cùng ca vang bài hát "Tiến quân ca".

"Đại quân ta" bước đi trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân Hà Nội.

Từng lữ đoàn nhanh chóng di chuyển về điểm tập kết tại sân Cột Cờ.

"Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về.
Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dọc sức sống long lanh".

Lễ chào cờ lịch sử trên sân khấu Cột cờ chiều ngày 10/10/1954.
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào ngày 21/7/1954 (theo giờ Việt Nam) nhằm khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương, nêu rõ việc quân Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Sáng ngày 10/10/1954, Uỷ ban Quân-Chính Hà Nội và Đại đoàn 308 từ các cửa ô mở cuộc hành quân lịch sử vào Thủ đô. Giương cao lá cờ “Quyết chiến quyết thắng”, Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Hà Nội, trong tiếng nhạc hùng tráng, giữa rừng hoa, rừng cờ và tình cảm thắm thiết của 20 vạn nhân dân Hà Nội đổ xuống đường, đón mừng Uỷ ban Quân-Chính và bộ đội.
Cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh cột cờ cổ kính như lời chào một trang sử mới cho đất nước Việt Nam.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét